Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì khi người có tài sản mất không để lại di chúc thì chia di sản thừa kế sẽ chia theo pháp luật. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ cung cấp đến bạn đọc nội dung thừa kế tài sản không có di chúc theo quy định của pháp luật hiện hành.
Không có di chúc di sản được chia theo hình thức nào
Khi người có tài sản mất đi mà họ không kịp để lại di chúc cho người thân trong gia đình thì mặc nhiên khối tài sản của người đó sẽ được chia theo pháp luật. Cụ thể hơn, trong điều 650 Bộ Luật Dân sự 2015 nêu rõ những trường hợp thừa kế theo pháp luật như sau:
- Không có di chúc;
- Di chúc không hợp pháp;
- Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
- Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Ngoài ra, tại khoản 2 điều này cũng quy định thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau:
- Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
- Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
- Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Như vậy, trong trường hợp khi mất mà người để lại di sản không viết di chúc hoặc họ có viết di chúc nhưng có một số tài sản khác họ không đưa vào di chúc thì những người thừa kế sẽ được quyền thừa kế tài sản của người đã mất (di sản) theo luật thừa kế tài sản không có di chúc.
Những cá nhân nào được hưởng thừa kế tài sản không có di chúc
Người được thừa kế tài sản không có di chúc là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng.
Cụ thể, điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về những người thừa kế theo pháp luật và những người này sẽ được xếp theo hàng thừa kế lần lượt như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Chú ý rằng, những người thừa kế tài sản không có di chúc cùng hàng với nhau được hưởng phần di sản bằng nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Thừa kế thế vị
Thừa kế thế vị chính là việc phần di sản mà người con chết trước hoặc cùng lúc với bố hoặc mẹ sẽ được hưởng nếu còn sống được chuyển giao cho các con hoặc cháu nội, ngoại (nếu như không có con còn sống) của người con đã chết đó.
Điều 652 quy định các trường hợp được thừa kế thế vị, cụ thể:
- Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống;
- Nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ
Bên cạnh quan hệ huyết thống và hôn nhân để xác định hàng thừa kế thì pháp luật còn căn cứ vào quan hệ nuôi dưỡng. Đây là một quan hệ làm phát sinh nhiều hệ quả pháp lý trong đó có việc xác định hàng thừa kế được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.
Điều 653 quy định như sau “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định về người thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị của Bộ luật này”.
Theo quy định trên, một người đã nhận người khác làm con nuôi của mình theo quy định của pháp luật sẽ là cha nuôi, mẹ nuôi của người con nuôi đó. Vì thế họ là những người thừa kế ở hàng thứ nhất của con nuôi và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thứ nhất của cha mẹ nuôi mình.
Quy định này được hiểu, một người vừa được thừa kế di sản của bố mẹ nuôi vừa được thừa kế đối với gia đình cha mẹ đẻ như người không làm con nuôi của người khác. Người nhận nuôi con nuôi vừa thừa kế của con nuôi vừa được thừa kế của con đẻ như một người không nuôi con nuôi. Cụ thể hơn đối với cha mẹ vừa có quan hệ thừa kế với con đẻ vừa có quan hệ thừa kế với con nuôi . Đối với người con nuôi vừa có quan hệ thừa kế với cha mẹ nuôi vừa có quan hệ thừa kế với cha mẹ đẻ của mình. Đối với việc thừa kế của người con cần xác định:
Về phía gia đình cha mẹ nuôi của người đi làm con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi nhưng không có quan hệ thừa với cha mẹ và con đẻ của người nhận con nuôi . Cha mẹ của người nhận con nuôi cũng không được thừa kế của người con đó.
Về phía gia đình, cha mẹ đẻ của người đi làm con nuôi. Người đã đi làm con nuôi của người khác vấn có quan hệ thừa kế với cha mẹ , ông bà nội ngoại , các cụ nội ngoại, anh,chị, em ruột,cô , gì , chú, bác cậu ruột như người không đi làm con nuôi.
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
Điều 654 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định rõ “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định về thừa kế thế vị và quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế của Bộ luật này”
Điều luật trên quy định về hai mối quan hệ: quan hệ giữa người chồng với con riêng của vợ, quan hệ giữa người vợ với con riêng của chồng. Các bên trong mối quan hệ nói trên không có quan hệ huyết thống nên về nguyên tắc thì họ không phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau.
thừa kế tài sản không có di chúc
Tuy nhiên, nếu giữa họ có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng lẫn nhau thì họ được xác định tương tự như cha, mẹ nuôi với con nuôi và vì thế họ sẽ là người thừa kế ở hàng thứ nhất của nhau nhưng không đương nhiên mang tính hai chiều như quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ nuôi, con nuôi.
Tuy nhiên, như thế nào được coi là có “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha mẹ, con” là một vấn đề hết sức khó khăn trong thực tiễn.
Thực tế cho thấy khi con riêng và mẹ kế cũng như con riêng và bố dượng không ở chung và sinh hoạt cùng một gia đình thì không thể xác định giữa họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng trong khi những người con đó thật sự về mặt tình cảm đã coi mẹ kế như mẹ đẻ, bố dượng như cha đẻ của mình. Họ luôn luôn quan tâm và thường gửi tiền cũng như các vật chất khác để phụng dưỡng bố dượng, mẹ kế.
Ngược lại, có trường hợp có ở cùng nhà với nhau nhưng bằng mặt nhưng không bằng lòng nên việc xác định giữa họ có chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, con; mẹ con là vô cùng khó khăn.
Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Điều 644 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định những đối tượng không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, bao gồm:
- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng
Mặc dù pháp luật dân sự không quy định rõ nhưng để được hưởng sự bảo vệ của quy định này thì phải là vợ, chồng hợp pháp của người lập di chúc. Đối với quy định về đối tượng là cha, mẹ thì pháp luật dân sự không đặt ra là cha ruột, mẹ ruột hay cha nuôi, mẹ nuôi, do đó, trong trường hợp này, người được hưởng phần thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc chỉ cần đáp ứng điều kiện là cha mẹ hợp pháp của người để lại di chúc.
- Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Trên nội dung này, có thể nhận thấy Bộ luật dân sự hiện hành không phân biệt con đẻ hay con nuôi, cont ruong giá thú hay ngoài giá thú nên tất cả những người này đều thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Về quy định đối với trường hợp con thành niên mà không có khả năng lao động, Bộ luật dân sự cũng không có giải thích rõ như thế nào là “không có khả năng lao động”.
Tuy nhiên, tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP có đưa ta một số trường hợp được coi là “mất khả năng lao động”, đó là trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên. Nếu một cá nhân thuộc trường hợp này thì thiết nghĩ cũng thuộc trường hợp “không có khả năng lao động” trong quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Những đối tượng này được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó.
Ngoài ra, những đối tượng trên sẽ không được nhận khi:
- Họ từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác;
- Họ là những người không có quyền hưởng di sản.
Trên đây là toàn bộ tư vấn của Luật Rong Ba về thừa kế tài sản không có di chúc. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tìm hiểu về thừa kế tài sản không có di chúc và những vấn đề pháp lý liên quan, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm.